Tâm Phẫn Ca hay bi ca?

 Tâm Phẫn Ca hay bi ca?

      Tâm Phẫn ca là chương khúc gồm 10 bài: Tôi Không Là Gỗ Đá (01), Người Lính Trẻ (02), Chuyện Hai Người Lính (03), Đi Vào Quê Hương (04), Nhân Danh (05), Bi Hài Kịch (06), Thầm Gọi Tên Nhau Trên Chiến Trường Tồi Tệ (07), Kỷ Vật Cho Em (08), Tưởng Như Còn Người Yêu (09), Bà Mẹ Phù Sa (10). Theo Phạm Duy trong Những Trang Hồi Âm: “Tâm Phẫn ca, cũng còn được gọi là ‘bài ca nổi giận’ (chanson en colère) lần lượt ra đời, phần nhiều là những bài thơ được phổ nhạc. Lý do là vì sau khi Tâm ca và một vài bài Tâm Phẫn ca của tôi được phóng ra thì nó gây một tiếng vang trong đám thi sĩ và nhạc sĩ trẻ. Nhiều bài thơ chống chiến tranh được viết ra, ví dụ thơ của Thái Luân, Tâm Hằng, Luân Hoán v.v… và nhiều bản nhạc phản chiến được soạn ra, ví dụ những nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, Miên Đức Thắng v.v…”.

      Nghe chương khúc này, trong từng lời ca, đâu chỉ có sự nổi giận mà còn chất chứa nỗi buồn đau của thời đại. Có thể gọi đây là khúc bi ca của một thời chiến tranh trên đất Mẹ Việt Nam.

      Trước tiên, ta bắt gặp hình ảnh đau thương của người phụ nữ trong chiến tranh. Đó là hình ảnh của người mẹ, người vợ. Nhiều văn nghệ sĩ phản ánh hình ảnh họ trong các tác phẩm. Và Phạm Duy cũng vậy.

      Nghe Bà Mẹ Phù Sa, tôi lại nhớ đến một nhạc phẩm khác viết về Mẹ, đó là Bà Mẹ Gio Linh cũng của Phạm Duy. Tôi đã từng run, tóc sau gáy như dựng đứng, tim như bị ai bóp khi nghe Thái Thanh hát: “Mẹ già tưới nước trồng rau/ Nghe tin xóm làng kêu gào/ Quân thù đã bắt được con/ Đem ra giữa chợ cắt đầu/ Hò ơi ơi ới hò! Hò ơi ơi ới hò! Nghẹn ngào không nói một câu/ Mang khăn gói đi lấy đầu/ Đường về thôn xóm buồn teo/ Xa xa tiếng chuông chùa gieo”. Và tôi cũng từng trăn trở khi đọc một truyện ngắn (tôi đã quên tác giả và tên truyện) kể về một bà mẹ thờ di ảnh 2 con trên một bàn thờ. Một đứa là cộng sản, một đứa là cộng hòa. Cả hai đứa đều được Mẹ thương yêu, tưởng nhớ. Mẹ chẳng bỏ đứa nào vì chúng đều là con của Mẹ! Nỗi đau như trên rõ trong từng chi tiết của từng tác phẩm. Còn trong Bà Mẹ Phù Sa lại khác. Chuyện kể về một bà mẹ ở đất Phù Sa - một xóm nhỏ, nhưng đã nhiều lần đổi thay. Mẹ sống với tấm lòng thương yêu, chưa được mấy lúc mừng, nhưng chẳng thở than. Rồi một ngày (“tháng tám năm sáu mươi hai”), có anh Ba cán bộ về tuyên truyền lập Ấp chiến lược. Mẹ gật gù nghe và xin cảm ơn. Rồi súng nổ vang. Mẹ lùa anh Ba trốn dưới gầm giường. Mẹ ra cười đón khách. “Anh xưng tên là Tư, đi giải phóng xóm làng”. Mẹ gật gù nghe và xin cảm ơn. Trông ra đường mương, thấy Quân đội Mỹ tới gần, “Mẹ lùa anh Tư cũng trốn dưới gầm giường”. Câu chuyện dở chừng:

          Tới đây là xong nửa chuyện

          Không biết rồi ai sẽ cứu ai?

          Ai sẽ cứu ai?

      Phạm Duy từng viết: “Chuyện BÀ MẸ PHÙ SA có thể là câu chuyện có thực như chuyện BÀ MẸ GIO LINH. Nhưng chuyện bà mẹ bây giờ khôi hài hơn”. Nghe xong cả bài, với giọng hát Hoàng Oanh, riêng tôi thấy, sự khôi hài trong tình huống này như của vở kịch bị bỏ ngỏ: “Ai sẽ cứu ai?”. Rõ là câu chuyện tưởng hài, nhưng lại cười ra nước mắt. Và theo tôi, chuyện như đùa, nhưng là bi kịch cho Mẹ Việt Nam!

      Còn đây là hình ảnh những người phụ nữ có người yêu, có chồng đi lính. Trong Tâm Phẫn ca 08 - Kỷ Vật Cho Em (phổ thơ Linh Phương), là lời hỏi xoáy sâu vào tình cảm bao người: “Em hỏi anh, em hỏi anh, bao giờ trở lại?”; và lời hẹn chỉ là một tương lai không chắc: “Xin trả lời, xin trả lời, mai mốt anh về”. Khi nghe cả bài ca này, người lính trở về cùng người yêu, người vợ có thể bằng “chiến thắng”, hoặc trở về bằng “hòm gỗ cài hoa”, hay “trên chiếc băng ca”. Người yêu, người chồng trở về có gì ngoài viên đạn đồng đen làm kỷ vật. Viên đạn đồng đen ấy là chứng tích của chiến tranh. Có thể anh ta chết, có thể anh ta bị thương. Người phụ nữ nào không đau đớn khi có người yêu, có chồng như thế. Và còn gì đau xót hơn khi người yêu, khi chồng nói lên sự thật phũ phàng:

          Anh trở về dang dở đời em

          Ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen

          Cố quên đi một lời trăng trối, em ơi!

      Và đây là nỗi đau xót của người phụ nữ như hóa điên, hóa dại trong Tâm Phẫn ca 09 – Tưởng Như Còn Người Yêu (thơ Lê Thị Ý) khi người yêu, người chồng tử trận:

          Ngày mai đi nhận xác chồng

          Say đi để thấy mình không là mình

          Ngày mai đi nhận xác anh

          Cuồng si thuở ấy, hiển linh bây giờ

      Nỗi điên dại ấy ngây ra, trơ ra như thể không còn nước mắt để khóc, để rửa nỗi buồn thương:

          Em không nhìn được xác chàng

          Anh lên lon giữa hai hàng nến trong

          Mùi hương cứ tưởng hơi chồng

          Ôm mồ cứ tưởng ôm vòng người yêu!

      Từng đọc Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn, bản dịch Đoàn Thị Điểm (?), tôi được biết tác phẩm là nỗi buồn thương của người vợ có chồng ra lính. Chỉ có nỗi lòng thương yêu, chờ đợi. Và đặc biệt là hy vọng một ngày chồng trở về trong khúc ca khải hoàn, trong niềm hạnh phúc đoàn viên. Còn trong Kỷ Vật Cho EmTưởng Như Còn Người Yêu, người phụ nữ dẫu có thương yêu, chờ đợi, nhưng đâu còn hy vọng. Tất cả đã mất hết! Chỉ có nỗi bi thương còn lại. Và người phụ nữ được gì ngoài khúc bi ca.

      Trong chương khúc này, tôi còn bắt gặp nỗi đau của những người lính. Họ là những người lính trẻ chết trận. Chết bất cứ thời điểm nào (“chết trận chiều qua”, “chết trận hồi mơi”, “chết trận ngày mai”, “chết trận ngày kia”). Chết bất cứ ở đâu (“chết trận ngoài khơi”, “chết trận bờ ao”). Cái chết của họ khiến cho cả vũ trụ buồn thương: “Nhiều vị Trời ngồi ôm mặt khóc/ Nhiều vị Thần rủ nhau vụt mất”. Cái chết của họ làm cho loài người nhìn lại chính mình : “Rồi loài người đổi thay hình dáng/ Người trần truồng về thuở hồng hoang…”.  Còn lại gì khi người lính trẻ chết trận?

          Người lính trẻ chết trận còn đâu

          Nên không lâu, nổ vỡ địa cầu

          Người lính trẻ chết trận rồi nghe!

          Xin nghe đây tận thế gần kề

          NGƯỜI LÍNH TRẺ…

          CHẾT TRẬN CÒN CHI!

          CÒN CHI?   

                  (Tâm Phẫn ca 02 – Người Lính Trẻ)

      Nỗi đau của những người lính làm sao nói hết. Nghe Tâm Phẫn ca 07 – Thầm Gọi Nhau Trên Chiến Trường Tồi Tệ (phổ thơ Ngô Đình Vận), với giọng ca Khánh Ly, tôi như thấy những tiếng gọi thầm, những lời than vãn của kiếp lính, những thằng lính trên những chiến trường khốc liệt. Điệp khúc “Thầm gọi tên mày!/ Thầm gọi tên tao!/ Thầm gọi tên nó!”; “Gọi tên mày!/ Gọi tên tao!/ Gọi tên nó!” cứ lặp đi lặp lại trong ca khúc như lời kinh cầu nguyện cho nhau, và có lẽ đó cũng là lời vĩnh biệt:

          Thầm gọi tên mày!

          Thằng bạn của tao!

          Mày vừa ngã xuống

          Hỡi mày chết đi cho người đời

          Còn sống yên trong nụ cười

          Gọi tên mày!

          Gọi tên tao!

          Gọi tên nó!

         Gọi tên nhau, suốt đời!

      Chiến tranh rồi cũng có ngày kết thúc. Những người lính đôi bên rồi cũng phải sống cùng nhau khi tiếng súng không còn. Tôi có dịp xem được tấm hình Hai Người Lính của nhiếp ảnh gia Chu Chí Thành chụp tại Quảng Trị (tháng 04/ 1973) trên một số trang báo cũng như trên Internet. Tấm hình ấy ghi lại phút giây hòa bình sau hiệp định Paris. Hai người lính ở hai đầu giới tuyến khoác vai nhau. Một người là bộ đội Nguyễn Huy Tạo, một người là lính cộng hòa Bùi Trọng Nghĩa.  Đâu dễ gì có giây phút thần tiên đó. Thật là kỳ diệu!

      Còn trong Tâm Phẫn ca 03 – Chuyện Hai Người Lính (phổ thơ Tâm Hằng) thì lại khác. Chuyện kể có hai người lính chung một làng, cùng yêu ruộng đất Việt Nam, cùng yêu Tổ Quốc Việt Nam, cùng họ hàng, cùng nòi giống Việt, cùng một lòng gìn giữ Việt Nam. Tưởng là họ cùng chung chí hướng? Hóa ra là:

          Có hai người lính ruổi rong đường trường

          Ngày đêm ủ ấp hờn căm

          Có hai người lính ruổi rong đường trường

          Cùng đi lùng bắt địch quân

          Có hai người lính là hai người hùng

          Cùng đi diệt lũ thù chung!

          Có hai người lính nằm trên ruộng đồng

          Cùng ôm khẩu súng chờ mong

          Có hai người lính, một sớm mai hồng

          Giết nhau vì nước Việt Nam.

      Lời ca như trên không những phẫn nộ, mà còn thở dài, buồn bực. Và có thể nói đó là khúc bi ca của những người lính cùng chung một Mẹ Việt Nam.

      Cũng trong chương khúc Tâm Phẫn ca này, ta còn bắt gặp nỗi đau của dân tộc Việt Nam “theo mệnh nước nổi trôi” (Tình Ca). Quả là xót đau khi con người lấy cứu cánh biện minh cho phương tiện. Có nỗi đau nào hơn khi nhân danh yêu nước, thương nòi, khi nhân danh tự do, hạnh phúc, khi nhân danh lý tưởng, khi nhân danh hòa bình mà phải giết người! Nỗi đau như phát điên lên, như cuồng lên:

          Vì nhân loại tôi phải giết, phải giết

          Giết trọn loài người, giết trọn loài người

          Xin nhân danh đường lối hòa bình

          Xin nhân danh đường lối hòa bình… giết luôn tôi!!!

                  (Tâm Phẫn ca 05 – Nhân Danh, phổ thơ Tâm Hằng)

      Nỗi đau ấy, cười không ra cười, khóc không ra khóc. Bởi tất cả, theo tác giả, chỉ là kịch. Nói đến kịch sân khấu, thì có tác giả kịch bản, đạo diễn, diễn viên, sân khấu… làm nên thành công của kịch. Vai trò đạo diễn có tầm quan trọng rất lớn trong kịch. Còn đây là kịch của cuộc đời, thời cuộc. Vở diễn đâu chỉ trên sân khấu - không gian giới hạn, mà vở diễn như có mặt trên quê hương Việt Nam khi đạo diễn đưa tay lên xuống:

          Đạo diễn đưa tay lên

          Đạo diễn đưa tay xuống

          Bi hài kịch bỏ màn

          Bi hài kịch chưa xong

          Diễn viên rơi nước mắt

          Đạo diễn khóc hay cười

          Khán giả thì bưng môi

          Khán giả thì im hơi

          Ôi bi kịch còn dài

          Trong hay ngoài sân khấu

          Bên trên hay là bên dưới

          Ai cũng buồn như nhau.

                  (Tâm Phẫn ca 06 – Bi Hài Kịch, phổ thơ Thái Luân)

      “Ai cũng buồn như nhau” sao gọi là hài kịch. Có chăng cái hài ấy chỉ là trò hề chính trị. Tất cả đều buồn! Và đó là bi ca một thuở.

      Bi ca một thuở ấy trong Tâm Phẫn ca làm rõ phần nào Cái Tôi đa cảm của Phạm Duy. Xin đừng gọi đây là Cái Tôi ba phải, được chăng hay chớ! Chính Cái Tôi đa cảm khiến cho con người nhìn đâu cũng thấy có chút gì đó đáng thương, tội nghiệp. Tội nghiệp cho người, tội nghiệp cho mình. Bởi cuộc đời này có biết bao nhiêu thứ giằng xé con người. Quả là bi kịch của cá nhân:

          Tôi vào quê hương bằng cuộn dây thép gai

          Đồng cỏ cha tôi, tôi trói gô hình hài

          Tôi đào thông hào, trồng cây chông nhọn hoắt

          Tôi giơ tay cao, tôi cấu tôi cào

          ………………………………………………….

          Tôi vào quê hương quà tặng nhớ đem theo

          Một khẩu Thompson hay chiếc súng cộng đồng

          Mỗi thằng một đứa, dành cho nhau một phát

          Mỗi đứa một thằng, dành một phát cho nhau

                  (Tâm Phẫn ca 04 – Đi Vào Quê Hương, phổ thơ Hoa Đất Nắng)

      Chính Cái Tôi đa cảm ấy đã khiến Phạm Duy phải trăn trở và viết Tâm Phẫn Ca 01 – Tôi Không Là Gỗ Đá, tặng Lê Tất Điều. Dù cái chết, như ông viết, là luôn nhìn thấy tận mắt, sờ tận tay, nhưng con người vẫn thản nhiên lạ thường trước những xác người. Đằng sau sự thản nhiên lạ thường ấy là tiếng khóc cho nhau. Khóc vì một Việt Nam đau thương, điêu tàn, vì người dân chết oan, vì binh đao không ngớt:

          Tôi không phải là cỏ cây

          Tôi không phải là gỗ đá

          Nên tôi khóc Việt Nam tôi

          Ròng rã ba đời không biết vui

      Vì không phải là gỗ đá, cỏ cây, nên Cái Tôi đa cảm không thể im tiếng mà cất lên tiếng nói của lương tâm, tiếng lòng lương thiện. Cất tiếng lên bởi mong cuộc đời này mãi được bình yên:    

          Tôi không thể nào thản nhiên

          Tôi không thể nào im tiếng

          Nên tôi thét vào thinh không

          Lời nói hãi hùng hơn tiếng bom

          Tôi không thể nào miệng câm

          Tôi không thể nào tai điếc

          Nên tôi khóc và tôi điên

          Cho bao giờ đến đời bình yên!

    Một thời bi thương của dân tộc qua đi. Một thời đất Mẹ Việt Nam mất những đứa con trong những trận chiến chỉ còn là ký ức. Tâm Phẫn ca – chương khúc bi ca của Phạm Duy - chỉ còn là quá khứ. Biết là thế, biết để mà tin tương lai đất nước quê hương Việt Nam không thể lặp lại nỗi buồn đau ấy, bởi: “Từ trải nghiệm của quá khứ chúng ta rút ra bài học dẫn đường cho tương lai” (John Quincy Adams).