Phạm Duy và Thiền Ca

 Phạm Duy và Thiền Ca

      Trong Những Trang Hồi Âm – Hát Trên Đường Về trên phamduy.com, Phạm Duy viết: “Tháng Sáu 1992, tôi đi hát ở Boston. Vì từ nơi cực Đông của Hoa Kỳ qua Pháp không xa lắm, tôi đi Paris chơi một tuần. Bỗng nhiên, tôi có một ngày chủ nhật đi lang thang một mình trong thành phố để gậm nhấm rồi hóa giải một nỗi buồn. Trong dĩ vãng, mỗi khi gặp phải chuyện buồn, tôi đều phản ứng như vậy. Ít lâu nay, trong cuộc đời về già không dễ dàng tung hoành như trước nữa, tôi luôn luôn bị vài nỗi buồn ám ảnh: buồn vì đang sắp sửa phải kết liễu một chuyện tình, buồn vì tình hình dân chúng – tôi cảm thấy - ở hải ngoại cũng như ở trong nước không còn thiết tha với người nghệ sĩ nữa, buồn vì sức khỏe mỗi ngày một giảm sút v.v…

      Thế nhưng, trong một buổi sáng lãng đãng đi một mình giữa Paris nắng rực và vắng vẻ này, tôi lại đánh đuổi được sự dằn vặt trong tôi. Một lần nữa sau đạo ca, rong ca, tôi bỏ rơi con đường nhạc đời để tìm về nhạc đạo. Tôi lại tìm thấy an ủi trong siêu nhiên. Trong chỉ có một đêm (16-6-1992), tôi hoàn thành 10 bài hát – tôi muốn được gọi là thiền ca”. 

      Cả 10 bài thiền ca như bộc lộ được Cái Siêu Tôi (The Superego) của Phạm Duy. 

      Đầu tiên là Thinh Không (Thiền ca 01). Có nhiều thứ đấy, có muôn loài, có tĩnh, có động, trong cái Tiểu Ngã hòa cùng Đại Ngã vô thường: “Tất cả là tôi/ Mà cũng là chung”, “Nhất nhất trùng trùng/ Nhưng cũng là không”… Nghe cả bài, ta như thấy Phạm Duy, cùng tôi và mọi người nhìn Thiền Sư Từ Đạo Hạnh ngâm trong một đêm ngắm trăng trên sông:

          Tác hữu trần sa hữu,

          Vi không nhất thiết không.

          Hữu không như thủy nguyệt,

          Vật trước hữu không không.

 

          Có thì có tự mảy may,

          Không thì cả thế gian này cũng không.

          Vừng trăng vằng vặc in sông,

          Chắc chi có có, không không mơ màng.

                  (Huyền Quang dịch?)

      Còn trong Võng (Thiền ca 02), ta như thấy trước mắt cái võng đu đưa. Trên cái võng đó có nhân vật “tôi” nằm. Một người nằm võng, thường là để nghỉ ngơi, thư giãn, có khi để ngủ. Chính cái trạng thái ấy đưa con người vào cõi mơ mơ màng màng. Chắc sẽ có nhiều sắc tướng, hình tượng ẩn hiện trong tâm thức. Và cái võng cùng “tôi” khi đu đưa ấy có khác chi con lắc chuyển động trong vũ trụ. Chuyển động, đu đưa từ trần gian đầy cám dỗ, thú vui đến tiên cảnh phiêu bồng; chuyển động, đi khắp mọi cõi, mọi chốn mọi nơi, đi từ cái chết đến cái sống, từ tình yêu đến thù hận, từ an lạc đến khổ đau:

          Tôi nằm võng, võng đưa võng đưa

          Tôi nằm võng, võng đưa võng đưa

          Ha, trần gian lạc thú

          Ha, tiên cảnh phiêu du

          Cõi tử, cõi sinh

          Cõi tình, cõi hận

          Núi đợi, vực chờ

          Niềm vui, nỗi khổ.

      Chợt nhân vật “tôi” như xuất hồn vía nhận ra là “tôi” vẫn nằm đó trên võng, nằm im. Và trước linh giác của “tôi” là võng đưa, võng đưa:

          Tôi nằm võng, võng đưa võng đưa

          Tôi nằm võng, võng đưa võng đưa

          Tôi nằm đó

          Nằm im mọi chỗ…

      Khi nghe Thế Thôi (Thiền ca 03), trước mắt tôi hiện lên một vườn hồng. Như mọi người đều biết hồng là loài hoa đẹp. Và tôi nghĩ hình ảnh hoa hồng ở đây tượng trưng cho cái đẹp, cho sự thật. Mà cái đẹp và sự thật luôn có cái giá của nó bởi “Sự thật và hoa hồng đều có gai” (Henry David Thoreau):

          Một vườn hồng

          Một vườn hồng

          Một vườn hồng

          Chao ôi, rất nhiều gai đâm.

      Rồi tôi nghe tiếp về một cuộc tình. Cuộc tình nào cũng có đam mê, nghĩa tình, bổn phận, nghĩa vụ nên tưởng là bền chặt, thế mà cũng dễ chênh vênh bởi những thứ không đâu vào đâu. Nghe để mà cảm nhận tự răn mình:

          Một cuộc tình

          Một cuộc tình

          Một cuộc tình

          Thật bền, rồi cũng chênh vênh.

      Trong thực tế cuộc sống, con người luôn đối diện với tiếng khóc. Trong bài hát nói Chữ Nhàn, Nguyễn Công Trứ đã viết: “Thoắt sinh ra thì đà khóc chóe/ Trần có vui, sao chẳng cười khì?/ Khi hỉ nộ, khi ai lạc, khi ái ố, lúc sầu bi/ Chứa chi lắm một bầu nhân dục”!

      Rõ là khóc đâu chỉ có khi buồn mà có cả khi vui, khi giận, khi thương, khi ghét. Giọt lệ rơi chứa cả thất tình, lục dục của con người:

          Một giọt lệ

          Một giọt lệ

          Một giọt lệ

          Mặn nhạt, đau thương, hạnh phúc.

      Nghe đoạn cuối Thiền ca 03, ta như thấy là cái đẹp, sự thật, tình yêu, thất tình, lục dục, trong cuộc đời rồi cũng chỉ là “thế thôi”:

          Một cuộc đời

          Một cuộc đời

          Một cuộc đời

          Ừ, chỉ cần thế thôi.

     Còn bài Không Tên (Thiền ca 04), hình ảnh đầu tiên được Phạm Duy nhắc đến là một loài hoa không tên, không hương sắc. Tôi rất bất ngờ khi có một loài hoa như thế. Không biết có một loài hoa như thế chăng? Tôi suy nghiệm và linh cảm rằng đây là loài hoa chủ của các chủng loại hoa có trên thế gian này. Loài hoa này, chẳng biết gọi tên là gì vì sắc màu của nó là tổng hợp của tất cả màu, hương của nó là tổng hợp của tất cả hương hoa. Thôi thì cứ gọi nó là “một loài hoa không tên”, loài hoa nở giữa lòng và tôi tạm gọi là “tâm hoa” như Phạm Duy ca ngợi:

          Một loài hoa không tên

          Không sắc không hương

          Mà như lòng tôi

          Lộng lẫy thơm lừng

          Tỏa ra bốn hướng.

      Và người yêu nhạc còn bắt gặp một hình ảnh ẩn dụ “ngọn suối không tên”. Đây là dòng tâm thức khởi nguồn, là dòng đời của con người:

          Một ngọn suối không tên

          Bé nhỏ ngoan hiền

          Mà như lòng tôi

          Nổi sóng lên đường

          Thành bốn trùng dương.

      Cuối bài hát, ta tưởng chừng đó là lời từ cõi lòng vô ngôn, từ Cái Siêu Tôi của Phạm Duy:

          Và lòng tôi không tên

          Như suối hoa tiên.

      Bài Xuân (Thiền ca 05) là sự khởi đầu của một người tỉnh thức, tới được bờ sông giác. Bỏ lại bên kia đời nào là “bội bạc”, “dối trá”, “hận thù”, “chém giết” để “an nhiên hát nhỏ”:

          Tôi là tôi, tôi cũng là em

          Em là tôi, em cũng là anh

          Là Xuân con bướm hút nhụy xuân tình

          Là gió xuân hồng, là cơn xuân vũ

          Là ý thơ nồng trang giấy xuân thư.

      Còn trong bài Chiều (Thiền ca 06), hình ảnh buổi chiều được đặt tên bài hát, cũng như xuất hiện trong ca từ. “Chiều” gợi nhiều liên tưởng trong tâm thức. Buổi chiều có người cho rằng đó là thời điểm sắp kết thúc một ngày của của trạng thái động, để chuyển dần đến trạng thái tĩnh; là thời điểm con người bắt đầu đối diện với chính mình, tự nhìn lại mình. Trong khoảng thời gian đó, biết bao thứ hiện ra, bao sự việc đã qua, bao con người đã hiện. Và theo tôi, những gì đặc biệt sâu đậm thường được nghĩ đến, hướng đến. Những thứ đó có thể là một việc làm ta bực mình, hoặc vui sướng; cũng có thể đó là nụ cười hiền, hoặc tiếng la mắng của ai đó; và cũng có thể là thành công hay thất bại của một ngày… Thôi thì cứ tạm gọi là “em”, là những gì có quan hệ với ta cho có vẻ dễ chấp nhận để tìm và gặp. Và khi gặp rồi thì:

          Ta lôi em về

          Ta kéo em đi

          Nâng em lên Trời

          Đem xuống âm ty

          Chôn em trong lòng

          Xong lấy em ra.

      Khi đã chiêm nghiệm thấu đáo lẽ đời, khi trải qua những gì chứng kiến (Ta tìm em/ Và gặp em), thì dù có gì gì đi nữa, mọi vật, mọi biến động cũng qua (Ta chưa ôm em/ Thì mất em). Rồi cứ thế chiều rồi lại chiều cất lên tiếng lòng:

          Trong chiều lên

          Có loài người và cây cỏ

          Hát êm

          Ta tìm em

          Và gặp em

          Ta chưa ôm em

          Thì mất em.

      Trong Người Tình (Thiền ca 07), người nghe bắt gặp hình ảnh “người tình tuyệt vời” trong cõi người lấy cột mốc hữu hạn trăm năm. Mới nghe lời ca, tôi tự hỏi chất thiền của ca từ sao đưa con người vào cõi đắm mê sắc dục. Nào là “người tình tuyệt vời”, là người có tình ái “trăm lối nghìn nơi”; có cả “thật thà gian dối”; có “trăm năm tội lỗi”. Như thế “người tình tuyệt vời” quả là quá đa tình, đa đoan, yêu đương cuồng nhiệt, đắm đuối (yêu như hổ đói, hiến dâng cho người, yêu không kịp nói, yêu cũng vội thôi). Chất thiền chỉ hiển hiện đoạn cuối của bài ca. Nghe để mà chiêm nghiệm:

          Người tình tuyệt vời

          Từ đầu từ cuối

          Thắng bại chẳng đòi

          Mất còn chẳng ai

          Người tình tuyệt vời

          Đường tình đi mãi

          Thất tình ngày rày

          Thỏa tình ngày mơi…

      Còn bài Răn (Thiền ca 08), mới nghe, tôi ngạc nhiên lời ca sao lại là những gì trần trụi, như là bản năng của con người. Như là Cái Nó, Cái Tôi ngự trị (“ăn, chơi; sống, chết, khóc, cười, nhớ, quên). Sao gọi đây là thiền ca? Nhưng rồi, nghe đi, nghe lại, nghe cho đến thấm, tôi mới thấy quả là chỉ là người từng trải đời mới viết được những ca từ an nhiên tự tại như vậy. Và tôi nghĩ chất thiền là vậy:

          Ăn cho vừa/ Chơi cho thật/ Sống cho thẳng/ Chết cho ngay/     Yêu cho lâu/ Ghét cho mau/ Khóc cho đầy/ Cười cho rõ/ Há há há/ Ha ha ha!
          Nhớ ơn người/ Quên thù ai/ Nhớ điều buồn/ Quên điều vui/ Nhớ tình này/ Quên tình khác/ Nhớ mình rồi/ Quên mình luôn/ Ha ha ha/ Ha ha ha!

      Còn bài Thiên Đường Địa Ngục (Thiền ca 09), là cuộc tình anh đi tìm em. Tìm em ở Thiên đường thấy em đó, nhưng rồi cũng chẳng được gặp em. Lại tìm em nơi Địa ngục; thấy em, nhưng thấy chỉ để mà thấy. Nghe xong bài ca, như ngộ ra rằng:

          Tìm em cao thấp chỉ là ảo vọng

          Thôi! Ở lưng chừng

          Nhớ nhau mà sống.

      Nhân Quả (Thiền ca 10) là bài cuối trong chương khúc thiền ca. Ca từ đẹp, gây ấn tượng cho người nghe. Không ấn tượng sao được khi bài ca nói về nhân quả trên trên cõi đời này. Đó là nhân quả của chiến tranh, hòa bình:

          Tròn như viên đạn đồng đen

          Đã khô vết máu quên miền chiến tranh

          Tròn như trái đất yên lành

          Muôn loài như một cõi sinh vẹn toàn.

      Đó còn là nhân quả của tình yêu, duyên phận:

          Tròn anh tim trẻ miên man

          Trái tim trăm tuổi mới hoàn cơ duyên

          Tròn em tung tóe cánh tiên

          Chim không mỏi cánh triền miên phận mình.

      Và cuối cùng là nhân quả của “lời hứa chung tình”:

          Tròn như lời hứa chung tình

          Chưa tròn nhân quả tái sinh còn nhiều.

      Nghe phần cuối bài ca, tôi như thấy một Phạm Duy viết thiền ca mà đa tình quá, nặng nợ với tình quá. Tình ở đây, đâu chỉ là chuyện nam nữ, gái trai, mà đó còn là chuyện gieo duyên gặt nợ của con người trong cõi trần này. Và tôi chợt nghĩ đến nhân quả được nói đến trong Kinh Thánh: “Hãy biết rõ điều đó, hễ ai gieo ít thì gặt ít, ai gieo nhiều thì gặt nhiều” (II Cô 9:6).

      Phạm Duy đã tìm thấy an ủi trong siêu nhiên qua 10 bài thiền ca. Ca từ trong 10 bài này như chất chứa Cái Siêu Tôi (The Superego) mà tác giả muốn bày tỏ khi đã trải qua bao biến động. Và tôi thấy ẩn hiện một Phạm Duy quá đỗi yêu thương cuộc đời.