Hương Ca, nỗi niềm thương nhớ quê nhà

 Hương Ca, nỗi niềm thương nhớ quê nhà

      Xa quê, ai không nhớ? Nỗi nhớ quê ấy là nhớ nơi chôn nhau, cắt rốn của mình, nhớ nơi chốn một thời in sâu những kỷ niệm vui buồn, khôn dại, nơi chứng giám tình yêu của tuổi học trò, tình yêu mộng mơ của thời trai trẻ, là nơi nuôi ta nên người,… Như nhiều người từng biết, Phạm Duy quê ở Hà Nội, có thời gian tham gia kháng chiến chống Pháp, rồi về thành, vô Nam, rồi sống ở hải ngoại, rồi về lại Việt Nam. Cuộc đời theo “mệnh nước nổi trôi” (Tình Ca) đã ảnh hưởng nhiều đến sáng tác của ông, trong đó có chương khúc Hương ca. Đây là tập hợp 10 bài ca viết về quê hương Việt Nam sau năm 2000. Qua chương khúc này, ta bắt gặp nỗi niềm thương nhớ quê nhà của tác giả.

      Trước hết, một Phạm Duy vội vàng thương nhớ quê nhà. Vội vàng có lẽ tuổi ông đã cao, không biết khi nào về được quê hương, không biết bao giờ gặp lại những người mà ông thương mến. Thời gian như không chờ đợi một ai. Ông như thấy không kịp nữa rồi! Cũng không thể hẹn kiếp sau về lại quê nhà! Do vậy, khi bắt gặp bài thơ Về Thôi của Lưu Trọng Văn, ông tự nhủ là phổ nhạc ngay, và giúp ông quyết định sáng tác 10 bài Hương ca. Bài thơ của Lưu Trọng Văn như là sự khởi đầu của Hương ca:

          Nào đâu có trăm năm, đâu có trăm năm, mà chờ mà đợi?

          Nào đâu có kiếp sau, đâu có kiếp sau, mà đợi mà chờ?

          Đất Mẹ, đất Nàng, con sáo sang sông

          Đất Mẹ, đất Nàng, con sáo sang sông

          Trăm năm bến cũ, có còn đó không? Còn đó không?

          Cây da bến cũ còn lưa, bến cũ còn lưa

          O đò năm trước đi mô không về…

                  (Trăm Năm Bến Cũ – Hương ca 01, phổ thơ Lưu Trọng Văn)

      Nhớ quê hương là nhớ cụ thể những kỷ niệm gắn bó thân thiết với quê hương. Đó có thể là những lần thả diều trên bờ đê lộng gió, có thể là những lần đá bóng bên cồn. Đó cũng có thể là những lần hái sim trên đồi, dạo chơi trong vườn bách thú. Đó còn là những lần tắm sông, tắm biển vào những ngày hè. Nhà thơ Tế Hanh cũng từng nhớ quê hương qua nỗi nhớ thương về con sông gắn với kỷ niệm thời trẻ: “Quê hương tôi có con sông xanh biếc/ Nước gương trong soi tóc những hàng tre/ Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè/ Tỏa nắng xuống lòng sông thấp thoáng/ Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng/ Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi/ Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi…” (Nhớ Con Sông Quê Hương). Một thời Lý Bạch nhớ quê trong Tĩnh Dạ Tứ đến độ: “Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương” (‘Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương’, Nam Trân dịch). Và, giờ Phạm Duy nhớ quê là nhớ về những lần tắm truồng trong sông vào đêm trăng huyền ảo:

          Lột áo ngang đầu, buông quần chùng xuống đất

          Nhào xuống dòng sông, ý y a sông sâu

          Ngâm mình trong nước gột hết, hết u sầu

          Giang hai chân rộng bơi vào, vào mộng mơ

          Trời xuống thật gần, mây êm trôi lặng lẽ

          Ngân hà tung tóe long lánh, ới long lánh

          Mặt trăng đâu đó về tắm mát cùng anh

          Vô vàn sao sáng múa hát trong trời thanh

                  (Tắm Truồng Sông Trăng – Hương ca 03)

      Trong cõi lòng Phạm Duy, nỗi nhớ quê còn là nhớ miền Nam nước Việt thân yêu. Ông từng viết những lời ca xao động lòng người về miền đất trù phú, mỡ màu, vùng đất của những con người phương Nam trong trường ca Con Đường Cái Quan: “Về miền Nam ta theo cơn gió đưa/ Về miền quê ta theo cơn gió về/ Về miền sông ăn cá nướng thơm ngày mưa/ Về đồng dưa ta tắm nắng vui đời ta/ Về miền Nam… Về miền Nam/ Người về đây trong gió bình an”… Và giờ nỗi niềm thương nhớ quê hương lại ùa về trong ký ức:

          Trong sương khói mong manh

          Có bóng người vô danh

          Từ bên này sông Tiền

          Qua bên kia sông Hậu.

          Mang theo chiếc độc huyền

          Và điệu thơ Lục Vân Tiên

          Tới Cà Mau, Rạch Giá

          Cất chòi giữa rừng thiêng.

                  (Hương Rừng – Hương ca 06, phổ thơ Sơn Nam)

      Ai xa quê lại không nhớ quê? Đôi khi tôi được gặp những bạn học hồi học trung học về thăm quê. Các bạn đều nhắc lại những kỷ niệm thời đi học. Các bạn kể lại nhiều thứ lắm. Tôi nghe qua lời kể đó là nỗi nhớ thương quê. Và tôi tin một điều, Phạm Duy cũng vậy. Một con người từng viết những bản nhạc đượm tình quê hương như Quê Nghèo, Về Miền Trung, Tình Ca… chắc hẳn nỗi niềm nhớ thương quê là điều hiển nhiên trong lòng ông. Một Hà Nội, nơi ông sinh ra và lớn lên luôn hiện hữu trong trái tim ông. Vì thế, dù ở xứ người, ông vẫn nhớ về Hà Nội. Nhớ để rồi tự an ủi mình. Dù đó là giấc mơ:

          Ngày Xuân phơn phớt gió

          Nhè nhẹ mưa bay bay

          Ửng hồng trên nhánh cây

          Cành hoa đào đo đỏ

          Đầy trời chim én nhỏ

          Gọi mùa Xuân về đây

          Lá đào rớt trên tay

          Tưởng chiều Xuân Hà Nội

                  (Mơ Dạo Xuân Hà Nội – Hương ca 07, phổ thơ Thảo Chi)

      Nhớ quê là nhớ kỷ niệm một thời trai trẻ. Một thời Phạm Duy tham gia Cách mạng kháng chiến chống thực dân Pháp. Và Hà Nội cũng vẫn trong giấc mơ thơm mùi tình ái thuở nào:

          Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

          Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

          Có nhớ dáng người trên độc mộc

          Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

 

          Tây tiến đoàn quân không mọc tóc

          Quân xanh màu lá dữ oai hùm

          Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

          Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm.

                  (Tây Tiến – Hương ca 10, phổ thơ Quang Dũng)

      Nhớ thương quê nhà, Phạm Duy tìm đường về lại quê hương. Ông về lại Việt Nam sau thời gian lưu lạc xứ người. Ông từng viết: “Lúc tôi còn nhỏ, tôi biết được thế nào là u sầu chỉ vì đọc một bài thơ mà có lẽ bây giờ nhiều người đã quên. Bài thơ nhỏ bé xa xưa (tôi không còn nhớ tên!) của thi sĩ Huyền Kiêu – cũng như bài Em Lễ Chùa Này sau này của Phạm Thiên Thư – là những bài thơ tình giản dị mà tôi rất yêu quý vì nó là những lời thơ, những chuyện rất ngây thơ, rất trong trẻo nhưng vì nước ta loạn lạc cho nên đã phần nào bị trôi vào quên lãng. Trở về quê hương khi tuổi đã quá 80, tôi tìm về những gì nhẹ nhàng nhất, trong trắng nhất”. Chính những gì nhẹ nhàng, trong trắng nhất ấy đã khơi dậy trong ông nguồn cảm hứng sáng tác. Một câu chuyện tình u sầu nhưng mà đẹp cũng làm ông yêu quý. Chuyện kể rằng: Ngày xưa khi “tôi” còn nhỏ, mùa Xuân có chàng đến hỏi chị đẹp của tôi đâu. Tôi trả lời là chị tôi hoa thắm cài đầu đang đuổi bướm vàng bên đồng nội. Rồi mùa hạ đến, cũng có chàng đến hỏi chị đẹp ở đâu. Tôi trả lời chị tôi khăn thắm quàng đầu đi giặt tơ vàng bên suối. Dù biết có người đến hỏi, tôi trả lời chị tôi xõa tóc ngang đầu đi hái tình sầu trong núi. Rồi:

          Đông xám, có chàng đến hỏi

          Đông xám, có chàng đến hỏi:

          Em thơ, chị đẹp em đâu?

          Chị đẹp của em đâu?

          Chị đẹp của em đâu?

 

          Chị tôi hoa phủ đầy đầu

          Chị tôi hoa phủ đầy đầu

          Đã ngủ trong lòng mộ tối

          Đã ngủ trong lòng mộ sâu

 

          Đã ngủ trong lòng mộ tối

          Đã ngủ trong lòng mộ sâu

          Đã ngủ trong lòng mộ tối

          Đã ngủ trong lòng mộ sâu

                  (Ngày Xưa, Một Chuyện Tình Sầu – Hương ca 04, phổ thơ Huyền Kiêu)

      Rõ là nhớ về câu chuyện tình sầu là nhớ về ngày tháng cũ của quê nhà trong ký ức. Và trong ký ức đâu chỉ có những chuyện tình sầu mà còn có những lời Mẹ dặn dò thời thơ ấu. Ai không một lần trót nói dối Mẹ, làm Mẹ buồn phiền? Và với lời Mẹ dạy, Mẹ khuyên răn, Mẹ dặn dò con nào quên được:

          Con ơi một người chân thật

          Thấy vui muốn cười là cười, thấy buồn muốn khóc cứ khóc

          Yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ kêu là ghét

          Dù ai ngon ngọt nuông chìu, cũng không nói yêu thành ghét

          Dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu

                  (Lời Mẹ Dặn – Hương ca 09, phổ thơ Phùng Quán)

      Còn đây, nỗi niềm thương nhớ quê nhà qua hình ảnh “em”. Em không còn “mặc áo the, đi guốc mộc” (Về Đây Nghe Em, nhạc Trần Quang Lộc, thơ A Khuê). Em cũng không còn là “em gái vườn quê, cuộc đời trong trắng, dầm mưa dãi nắng/ Mà em biết yêu trăng đẹp ngày rằm…” (Duyên Quê, Hoàng Thi Thơ). Mà giờ, em áo trắng, áo vàng, áo đỏ hợp thời; em giờ tô môi, dưỡng da, tắm nắng… Giờ, em là những gì hiện đại, tân kỳ:

          Em là con ngựa non thon vú

          Giữa rừng người hoang vu

          Anh và em lạc vô thành phố

          Vó ngựa buồn quanh co

 

          Em khắc khoải toàn thân ư nhẩy múa

          Em êm êm tỉnh nhỏ (o) mắt buồn

          Em cuồn cuộn còi ca nắng biển

          Em thèm yêu ngực gầy (y) mi thâm…

                  (Ngựa Biển – Hương ca 05, phổ thơ Hoàng Hưng)

      Nhớ thương quê, ông lại tìm đường về quê. Không như Hạ Tri Chương trong Hồi Hương Ngẫu Thư: “Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi/ Hương âm vô cải, mấn mao tồi/ Nhi đồng tương kiến, bất tương thức/ Tiếu vấn, khách tòng hà xứ lai?” (‘Khi đi trẻ, lúc về già/ Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao/ trẻ con nhìn lạ không chào/ Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?’, Phạm Sĩ Vĩ dịch). Phạm Duy lại may mắn hơn. Quê hương chào đón ông như người thân thiết. Ông kể lại là sau những tháng năm dâu bể, lưu lạc xứ người, sau những tháng ngày lận đận, ông hồi hương như là tìm lại chính mình. Một hôm, về Hậu Giang, qua phà sông lớn, đang nhìn cảnh mây nước, nhìn những cánh bèo trôi mà nghĩ phận mình. Bỗng có tiếng em bé chào mời ông mua vé số. Nhìn em bé xinh với guốc mộc, áo lành, với đôi mắt to và trong sáng, với má đượm nắng, môi hồng, tóc dày thơm với chiếc kẹp tóc đơn sơ, đáng yêu. Ông móc túi ra tặng em bé món tiền không nhỏ. Em bé lắc đầu không nhận, em chỉ mong bán được vé số thôi. Thế rồi, ông cũng phải mua dù chẳng tin xổ số, mà ông mua những 20 tờ. Và rồi:

          Em cười đôi má đỏ hoe

          Em cười đôi má đỏ hoe.

          Thế rồi phà tới bến quê

          Thế rồi tôi bước lên xe

          Bé thơ chạy tuốt lên bờ

          Rút kẹp tóc ra, rút kẹp tóc ra

          Con tặng cho ông đó.

          Thế rồi tôi vẫn còn đi

          Trên đường giang hồ đây đó

          Mang theo hương vị quê mùa

          Hương nồng từ đất quê ta

          Đến từ kẹp tóc em thơ

          Chiếc kẹp tóc thơm tho.

                  (Chiếc Kẹp Tóc Thơm Tho – Hương ca 08)

      Câu chuyện giản đơn mà thấm tình người, tình quê quá đỗi. Món quà của em bé tặng cho ông rất đỗi bình thường, nhưng đặc biệt. Bình thường vì bé gái nào chẳng có kẹp tóc, mà ở đây là chiếc kẹp tóc chẳng mấy giá trị. Nhưng đặc biệt vì đây là vật mà bé gái nào cũng cần có nó để mái tóc gọn gàng, và để làm đẹp. Đã là con gái, dù còn bé, đều muốn làm đẹp. Khi bé gái tặng cho tác giả chiếc kẹp tóc, thì mái tóc của bé sẽ ra sao? Rõ là chỉ có tấm lòng, tình cảm làm cho món quà trở nên quý bởi “giá trị món quà không nằm trong món quà, mà nằm trong chính tấm lòng người trao tặng” (Seneca). Hình ảnh em bé ở đây là một phần tình cảm của quê hương đối với tác giả. Và còn gì đẹp bằng hình ảnh quê hương từ hương tóc, hương vị quê nhà từ chiếc kẹp tóc mãi là ấn tượng khó phai trong lòng tác giả.

      Làm sao tác giả quên được quê nhà một thời thương đau, một thời loạn ly làm miền quê xơ xác. Làm sao ông quên được nắng quái chiều hôm, mưa giông bão tố trên quê nghèo, xóm vắng. Nhớ để mà biết rằng có buồn đau cũng chẳng ích gì. Đau thương rồi cũng sẽ qua. Buồn thương rồi cũng xong. Có khác chi trăng tròn rồi lại khuyết; khuyết rồi lại tròn. Có khác chi hoa tàn, khô rụng rơi về cội để rồi nuôi mầm, rồi cây lại ra hoa. Dù thế nào đi nữa, quê hương vẫn mãi đẹp trong lòng:

          Quê hương một đổi dài lá non

          Em mơ màng lả lướt bước chân mềm

          Vai kề vai nắng êm đưa người trên lối quen

          Không buồn dĩ vãng không màng cõi tiên

 

          Quê hương một chiều ngồi mé sông

          Ta ca thầm một khúc hát mơ màng

          Trong trời quang đãng ôi, nghe tình ca lứa đôi

          Đôi tình nhân đó nên đời vẫn vui

                  (Quê Hương Vô Thường – Hương ca 02)

      Nghe chương khúc Hương ca mới thấy quê hương luôn trong trái tim Phạm Duy. Và tôi như thấy ông ôm cây ghi ta, đàn và cất lên lời ca thương nhớ quê nhà: “… Tình ngàn phương!/ Biết yêu nhau như lòng đại dương/ Người phiêu lãng!/ Nước mắt xuôi về miền quê lai láng/ Xa quê hương… Yêu quê hương…” (Tình Hoài Hương).