Trường ca Mẹ Việt Nam

 Trường ca Mẹ Việt Nam

      Phạm Duy viết nhiều trường ca, nào là Con Đường Cái Quan, Mẹ Việt Nam, Bầy Chim Bỏ Xứ, Minh Họa Kiều, Hàn Mặc Tử. Trường ca nào cũng mang dấu ấn sáng tạo của tác giả. Ở phần bài viết này, tôi xin nêu những điều cảm nhận trường ca Mẹ Việt Nam qua hình tượng Mẹ Việt Nam vừa cụ thể, chân thực vừa trừu tượng, hư ảo. Trường ca Mẹ Việt Nam gồm có 4 phần: Đất Mẹ, Núi Mẹ, Sông Mẹ, Biển Mẹ, và chung khúc Việt Nam, Việt Nam.

 

      Trong phần I – Đất Mẹ, hình ảnh Mẹ Việt Nam hiện lên là người Mẹ của quê hương đồng ruộng Việt Nam trong thế kỷ XX trở về trước. Đó là người Mẹ “không son không phấn”, “chân lấm tay bùn”, “không mang nhung gấm”, “mang tấm nâu sồng”. Đó còn là hình ảnh người Mẹ xinh đẹp:

          Đôi má tươi hồng, má tươi hồng, với bàn tay trắng

          Nhỏ người vai lẳn vú căng tròn, tròn lưng ong

      Hình ảnh Mẹ hiện thân là người phụ nữ khát khao tình yêu đôi lứa:

          Đây ruộng đồng trinh

          Mẹ khát khao mầm, mầm tươi ngon

          Mẹ Việt Nam

          Trời Đông ánh dương hồng

          Cũng như chiều vàng mênh mông

          Có đàn chim én lượn trên đất xinh

          Chứa chan tình là tình mong chờ.

      Ta như thấy nụ cười tươi dòn của Mẹ khi Mẹ Đón Cha Về vui duyên thề cùng cha trọn đạo nghĩa vợ tình chồng. Ta cũng thấy Mẹ chịu thương, chịu khó lo cơm nước cho gia đình yêu thương của mình:

          Năm tháng lo gạo gánh nuôi chồng

          Mẹ Việt Nam đêm ngày thầm mong

          Lửa bếp thơm nồng tình uyên ương.

      Và Mẹ hóa thân thành Châu Long, Kính Tâm với lòng dạ “trắng như ngần và sạch trong”, với tâm “từ bi” nhân ái.  Ta cũng thấy Mẹ hóa thân thành Bà Trưng, Bà Triệu:

          Việt Nam có anh hùng, mắt nhung và môi son

          Giữa mùa Xuân giết giặc

          Yêu nước non, hé môi cười.

 

      Trong phần II – Núi Mẹ, Mẹ Việt Nam hiện lên là Bà Mẹ trong những cuộc chiến. Lời Mẹ Hỏi là lời quặn thắt, đớn đau của bao người phụ nữ Việt Nam khi tiễn chồng ra lính:

          Lính vua! Lính chúa! Lính Làng!

          Trời ơi! Giết bao nhiêu giặc

          Cho chàng, chàng phải đi?

      Lời hỏi ấy còn day dứt khi mùa Xuân đến, Mẹ bâng khuâng hỏi:

          Hoa trên đồi, hoa trên đồi sớm tối còn tươi

          Giữa ngày xuân mới, giữa hội mùa vui

          Sao vắng tiếng cười?

          Sao vắng bóng người?

      Còn trong đoản khúc Mẹ Bỏ Cuộc Chơi của phần II này, ta thấy Mẹ là hình ảnh người phụ nữ trong “Chinh Phụ Ngâm Khúc” của Đặng Trần Côn. Ta cũng thấy Mẹ hóa thành Vũ Nương chỉ hình bóng của mình như hình chiến sĩ ngả trên đồi khi nắng quái chiều hôm, nói với con đó là cha của Đản:

          Gió hè qua, Mẹ ra con hỏi

          Khi trên đồi, khi trên đồi nắng quái chiều hôm

          Có phải chàng Trương gốc miền Nam Xương

          Xa vắng xóm làng vì cha ở chiến trường

          Nắng sẽ sẽ không đi, bóng Mẹ ngả trên đê

          In hình người chiến sĩ, cho Mẹ nhìn con trẻ

          Con ơi hỡi cha kìa

          Mau ra đón cha về với con.

      Mẹ còn là hình ảnh trong lòng người chiến sĩ. Nghe khúc ca Mẹ Trong Lòng Người Đi, ta thấy Mẹ đang dõi mắt theo bước chân của người lính. Bước chân người lính qua bao đồi núi, rú đèo vẫn vững vì mang trong tim hình bóng Mẹ:

          Đồi cao, cao núi cao

          Rừng sâu, sâu rú sâu

          Cũng có, có lối leo đường trèo

          Đường treo, treo giữa đèo

          Đường dẫu, dẫu hiểm nghèo

          Đường ta, ta vẫn có lối theo. 

      Trước măt ta là những người lính mang hình ảnh Mẹ trên đường hành quân, hăng hái lên đường ra trận, khi thì giơ tay thề nguyền, lúc hét tiếng xung phong, hò reo chiến thắng trên những con đường đến Lam Sơn, Thất Sơn, Hoành Sơn, Vạn Kiếp… cũng như trên những con đường tới những chiến công, đến với người thương:

          Ra đi còn nhớ ngày nao

          Nuôi con Mẹ vẫn nguyện cầu

          Người sinh ra có nhau

          Phải thương nhau mến nhau

          Nhưng đã có biết bao phen khổ đau

          Giặc xâm lăng nước nhà

          Phải cứu lấy dân ta

          Thì ta lên núi với Mẹ già.

      Còn gì quý bằng tình yêu của Mẹ dành cho chiến sĩ. Tình yêu ấy là chỗ dựa vững chắc của những người ở hậu phương cũng như chiến sĩ để người lính an tâm lên đường đánh giặc:

          Anh ơi! Phải lính thì đi

          Nơi quê em gìn giữ lời thề

          Vườn dâu em đốn sâu

          Trẻ thơ khôn lớn mau

          Cho chiến sĩ bước theo tiếng Mẹ kêu

          Mẹ giơ tay đón chào

          Gìn giữ lũ con yêu

          Vì yêu, con chiến đấu dài lâu.

     Lời Mẹ ngắn gọn đầy mệnh lệnh nhưng chất chứa niềm tin trong đoản khúc Mẹ Trả Lời. Lời Mẹ chính là lời non nước, quê hương:

          Giữ dân! Giữ nước! Giữ làng!

          Chàng ơi, giữ thân cho Mẹ

          Cho nàng dạy con.

     Còn trong đoản khúc Mẹ Hóa Đá, hình ảnh của Mẹ như tạc vào đá núi, không ngủ, đứng suốt bốn nghìn năm theo “mệnh nước nổi trôi” (Tình Ca, Phạm Duy) xót thương con dân Việt:

          Gió mùa Đông, Mẹ không thấy mỏi

          Đứng trông về, đứng trông về bốn cõi trời xa

          Xót người nông phu chắp từng manh áo

          Thương gái gánh về thùng bánh ế cuối ngày

          Biết mấy nỗi thương vay, thấy trẻ nhỏ giơ tay

          Con ngựa người vất vả, xe nặng nề qua ngõ

          Thương thi sĩ hay buồn

          Cho nên Mẹ hóa ra hòn núi cao.

 

      Tiếp đến, phần III – Sông Mẹ đưa ta đến những dòng sông trên quê hương Việt Nam. Này là dòng sông mà người con gái lấy chồng xa quê, cứ mỗi chiều chiều lại ra đứng bờ sông nhìn về quê Mẹ, bồn chồn, nôn nao trong đoản khúc Muốn Về Quê Mẹ:

          Chiều chiều ra đứng bờ sông

          Muốn về quê Mẹ

          Muốn về quê Mẹ

          Mà không có đò!

      Trong phần III này, khúc ca Sông Còn Mải Mê gợi lên trong lòng ta những dòng sông cuồn cuộn chảy về biển Đông:

          Sông Hồng cuộn sóng lôi cuốn Sông Lô

          Sông Đà, Sông Đuống trôi xuống Sông Cầu

          Nghe Bạch Đằng Giang chôn bao nhiêu xác quân Tầu

          Sông nào cũng muốn đến trước tranh lấy công đầu.

      Còn trong khúc ca Sông Vùi Chôn Mẹ, nghe mà quặn lòng. Mẹ là hình ảnh Trưng Trắc, Trưng Nhị trầm mình rửa nhục. Mẹ là hình ảnh Vũ Nương tự tìm cái chết để minh chứng lòng trong trắng, để rồi chàng Trương hối hận, lập đàn giải oan. Và khi nghe đoạn cuối khúc ca này, trong tôi lại nhớ tới hình ảnh người Mẹ trong truyện ngắn của Khái Hưng được học hồi trung học. Đó là Lạc, cùng chồng là Thức, bơi thuyền vớt củi trong cơn lũ dữ trên sông Nhị Hà để đổi lấy tiền lo cái ăn cho con. Không may, thuyền bị chìm. Trong giờ phút sinh tử ấy, cả hai đều cố gắng bơi. Thức thấy Lạc đuối sức, bèn vội vàng đến cứu. Lạc bám vai chồng cùng bơi. Khi cả hai không còn sức, Lạc chỉ nói: “Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái Bé!... Không!... Anh phải sống!”. Và “Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để chìm xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ” (Anh Phải Sống, Khái Hưng). Theo tôi, Phạm Duy đã nâng hình ảnh người Mẹ gần gũi, đời thường như bị dòng sông đời vùi chôn thân xác, trong giờ phút chọn cái chết vẫn luôn nghĩ đến con:

          Nhớ Mẹ, nhớ Mẹ

          Yêu đàn con, thương đàn con

          Nên trao thân cho nước ngoan

          Nhớ Mẹ, nhớ Mẹ

          Trên trường giang mong đàn con

          Sông trôi suốt đời trong trắng

          Hỡi ôi! Có ngày, có Mẹ vui

          Ôm sóng bơi, vớt củi sông dài

          Ngờ đâu sông đảo điên say máu

          Nước cuộn mau khiến cho Mẹ chìm sâu.

      Cũng trong phần này, hình ảnh dòng sông được nhân hóa trong khúc ca Sông Không Đường Về. Nghe mà đau buồn, nghe mà xót ruột:

          Sông đỏ như máu  tranh đấu sông nâu

          Sông nghèo xanh yếu kêu cứu sông giầu

          Sông nhuộm vàng mau chia nhau uốn khúc khoe mầu

          Sông rồng lôi kéo lũ rắn đi cắn sông đào.

      Còn trong khúc ca Những Dòng Sông Chia Rẽ, mỗi lần, nghe mà ngậm ngùi cho số kiếp của lứa đôi bởi dòng sông Ngân ngăn cách; nghe mà tắc lưỡi ngẫm chuyện đời sông Thương; nghe mà buồn thương cho dòng sông Gianh, Bến Hải:

          Nước đi là nước không về

          Chia đôi dòng nước chia lìa dòng sông

          Chia đôi bên bờ bến lạnh lùng

          Cho Ngưu Lang và Chức Nữ ngại ngùng

          Chia đôi dòng sông Thương

          Nước bên đục bên trong

          Nước ân tình đổi thành ra nước căm hờn

          Chia sông Gianh phân tranh mộng đồ vương

          Chia con sông Bến Hải buồn thương

          Nước yên vui từ nguồn

          Bỗng gây nên điều buồn

          Dòng lệ tuôn thành sông không có linh hồn.

      Hình ảnh “Những dòng sông chia rẽ” được khái quát là sự ngăn cách bởi lòng người - những đứa con của Mẹ Việt Nam. Sự ngăn cách ấy có xóa đi được hay không là khi những đứa con lầm đường lạc lối trở về cùng Mẹ:

          Lũ con lạc lối đường xa

          Có con nào nhớ Mẹ ta thì về.

 

      Phần cuối là phần IV – Biển Mẹ. Mở đầu phần IV là khúc ca Mẹ Trùng Dương:

          Sóng vỗ miên man như câu ru êm của Mẹ dịu dàng

          Nước biếc mênh mông như đôi tay ôm của Mẹ trùng dương.

      Mẹ là biển, là vô cùng, bất tận, là mặn nồng vị muối, là tôm cá tươi ngon, là mưa gió hiền khô, là tình yêu thương vô bờ lan khắp Việt Nam:

          Mẹ tìm con trong gió Bắc

          Mẹ về phương Nam nắng gắt

          Tình nhà mở cửa đem ra góp với bao la

          Sóng vỗ êm êm như khuyên con nên trở lại Mẹ hiền

          Gió rít thông reo như kêu con mau trở về Mẹ yêu.

      Khúc ca Biển Đông Sóng Gợn là khúc reo đoàn tụ của những con thuyền Việt quay về cùng biển Mẹ:

          Biển Đông gợn sóng tứ bề

          Gọi thuyền viễn xứ quay về Biển Đông.

      Đó cũng là khúc ca mừng những dòng sông về cùng biển Mẹ:

          Sông ra đi từ khi non dại

          Từ miền ngoài sông lại Việt Nam

          Có từ Hi Mã Lạp Sơn

          Cũng về biển Mẹ thành con một nhà.

      Còn trong khúc ca Thênh Thang Thuyền Về, ta như thấy cảnh đoàn viên của đàn con về với Mẹ sau những chuyến đi dài ngày trên biển. Chỉ có thuyền về trên lớp sóng vui, chỉ có biển êm sóng lặng, nước nôi hiền lành, chỉ có niềm thương yêu lan tỏa:

          Về đây xây đắp mối tình, một mối tình

          Về đây xây đắp mối tình ôi tình Việt Nam

          Yêu nhà yêu nước, nước, nước và thương thương mọi người

          Tình tính tang tang tính tình, yêu Mẹ già, thương Mẹ ta

          Đàn con nhớ, nhớ yêu nhau

          Đàn con nhớ, nhớ thương nhau.

      Và trong khúc ca Chớp Bể Mưa Nguồn, ta thấy Mẹ đang cười, đang khóc, đang vui, đang buồn cùng đàn con bởi “mệnh nước nổi trôi” (Tình Ca), bởi biến động nhiễu nhương của cuộc đời. Nghe để mà tin rằng nụ cười của Mẹ, nước mắt của Mẹ rửa sạch tội lỗi của đàn con:

          Đêm qua chớp bể mưa nguồn

           Để người trong nước hết buồn lại vui

          Vui buồn chút lệ rơi

          Vui buồn khóc lại cười

          Mẹ cười Mẹ bốc thành hơi

          Mây từ biển quý lên ngôi trời già

          Mây về khắp cõi đời

          Mưa rửa lỗi con người.

      Còn khi nghe khúc ca Phù Sa Lớp Lớp Mây Trời Cuộn Bay, ta như thấy trước mắt những ngọn sóng cần mẫn, miệt mài đêm ngày ôm lấy phù sa bồi đắp bãi bờ, để đồng chua rộng ra, nới ra thành ruộng mỡ màu:

          Triều dâng, triều dâng, ngọn sóng, ngọn sóng theo trăng

          Theo trăng vào bờ, ôm lớp phù sa, theo trăng vào bờ

          Ngọn triều dâng sóng nhấp nhô, sóng nhấp nhô

          Ngọn triều dâng sóng nhấp nhô, xa xa xa là xa

          Đồng chua rộng nới, nới, nới, nới thành ra, ra ruộng mềm.

      Và ta thấy “mây trời trắng cuộn” che nắng bốn mùa, đem mưa ngọt bùi khắp nơi nơi để đời người tươi đẹp, an vui “Vì đã biết, biết yêu nhau/ Vì đã biết, biết thương nhau”.

      Trong chương khúc Mẹ Việt Nam ơi, ta thấy biết bao đứa con của Mẹ Việt Nam về cùng Mẹ, đang ở bên Mẹ, nắm tay Mẹ, hít hà bày tỏ tình yêu. Ta như thấy ta, biết bao anh chị em ta, những đứa con của Mẹ siết chặt tay, thề và hứa với Mẹ giữ mãi tình yêu của Mẹ:

          Mẹ Việt Nam ơi! Mẹ Việt Nam ơi!

          Chúng con đã về khát khao hơi Mẹ

          Chúng con xin thề giữ thơm quê Mẹ

          Cuộc đời rồi phai tàn sau thế giới

          Chỉ còn tình yêu của Mẹ mà thôi

          Ôi! Mẹ Việt Nam!

      Còn gì đẹp bằng những đứa con yêu của Mẹ Việt Nam nguyện thề “giữ thơm quê Mẹ”!

 

      Cuối cùng, trong phần chung khúc Việt Nam, Việt Nam là tiếng lòng của bao người con dân Việt.

      Khi còn trong bào thai, ta nghe tiếng nói của mẹ, cha, bà, ông mừng vui khi biết mình có con, có cháu. Biết bao tiếng trầm trồ chúc phúc của người thân yêu. Rồi ta được sinh ra, bên vành nôi, ta lớn lên theo lời ru dịu ngọt của mẹ, của bà, có khi là lời hát cố sao cho nhẹ êm của cha, của ông. Việt Nam hình thành trong ta từ đó. Rồi khi lớn lên ta càng hiểu hơn về đất nước, con người Việt Nam. Dù gì đi nữa, ta cũng yêu nước Việt Nam mình như yêu cha mẹ, ông bà, như yêu mái nhà, con phố… Yêu từng trang cổ tích, yêu từng mái trường đến mùa thi phượng vĩ nở hồng… Yêu đủ thứ, kể cả nụ cười của cô bé ngày xửa, ngày xưa, kể cả đôi mắt ai kia ngời sáng… Và có lẽ, đến khi nhắm mắt lìa đời, làm sao ta quên được những gì đã qua, những gì ta yêu cả khi nhắm mắt:

          Việt Nam, Việt Nam, nghe tự vào đời

          Việt Nam, hai câu nói

          Bên vành nôi: Việt Nam, nước tôi

          Việt Nam, Việt Nam, tên gọi là người

          Việt Nam, hai câu nói

          Sau cùng khi lìa đời.

      Yêu Việt Nam, từ lúc vào đời đến khi lìa đời vì Việt Nam ta tươi đẹp, vì Việt Nam khát vọng muôn đời về tự do, công bình, bác ái, vì Việt Nam “không đòi xương máu”, vì Việt Nam “kêu gọi thương nhau” như Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo: “Dĩ đại nghĩa nhi thắng hung tàn/ Dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo” (“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”; Ngô Tất Tố dịch), và cũng vì mơ ước một nước Việt thanh bình:

          Việt Nam đây miền xinh tươi

          Việt Nam đem vào sông núi

          Tự Do, Công Bình, Bác Ái muôn đời

          Việt Nam không đòi xương máu

          Việt Nam kêu gọi thương nhau

          Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu.

      Còn gì đẹp bằng trên đường tương lai, Việt Nam là lửa thiêng, nguyện tranh đấu cho đời khi lấy tình yêu thương làm vũ khí, công cụ xây dựng tình người bởi “Tình yêu thương là điều duy nhất chắc chắn có thể rọi sáng tất cả những đám mây đen của cuộc đời” (Sinclair Lewis):

          Việt Nam trên đường tương lai

          Lửa thiêng soi toàn thế giới

          Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời

          Tình Yêu đây là khí giới

          Tình Thương đem về muôn nơi

          Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người.

      Và cuối chung khúc, ta như thấy ta cùng mọi người Việt Nam đồng cất lên tiếng hát ngợi ca:

          Việt Nam! Việt Nam!

          Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời

          Việt Nam! Việt Nam!

          Việt Nam muôn đời!

      Nghe trường ca Mẹ Việt Nam, tưởng chừng như nghe cả hồn thiêng sông núi, cả những người Mẹ, cả văn hóa, lịch sử gần năm ngàn năm của nước Việt ẩn hiện trong lời ca.

      Nghe để thấy trong từng nắm đất, ngọn rau, cây lúa đều có thịt da của Mẹ. Nghe để thấy trong từng dáng núi linh thiêng có bóng dáng Mẹ. Nghe để thấy hình sông nào trên quê làng yên bình, phố thị đông vui cũng có hình ảnh Mẹ. Nghe để rồi thấy biển Mẹ trùng dương mãi là Mẹ hiền ấp ôm, nuôi con dân Việt muôn đời.

      Nghe để mà tin rằng lời thề “giữ thơm quê Mẹ” mãi là lời thề trước sau như một, lời thề in tạc vào Đất Mẹ, Núi Mẹ, Sông Mẹ, Biển Mẹ Việt Nam

      Nghe để mà tin yêu vào cuộc đời này, tin yêu vào đất nước con người Việt Nam với khát vọng Tự do, Công bằng, Bác ái.

      Và khi nghe xong trường ca Mẹ Việt Nam, tôi xin mượn lời của Sallust như là lời ca ngợi Phạm Duy: “Thật ngọt ngào khi phục vụ đất nước bằng những việc làm, và cũng không phải là vô lý khi phục vụ đất nước bằng ngôn từ”.